Việt Nam quyết không để Trung Quốc chiếm Biển Đông


(11/04/2020)- Trung Quốc lợi dụng Covid-19 gây căng thẳng ở Biển Đông: Liệu Việt Nam, Philippines và Malaysia có cùng nhau đoàn kết chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông?

Vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam chỉ là để Trung Quốc phô trương cơ bắp, thị uy sức mạnh và khẳng định quyền bá chủ ở Biển Đông trong khi cả thế giới đang vật lộn chống lại đại dịch Covid-19.

Nhiều chuyên gia quốc tế nhận định, Trung Quốc đang lợi dụng đại dịch Covid-19 để làm căng thẳng tình hình ở Biển Đông, bác bỏ yêu sách chủ quyền của các quốc gia láng giềng nhỏ hơn trong Đông Nam Á trên tuyến hàng hải thường xuyên xảy ra tranh chấp giữa Bắc Kinh và các nước trong khu vực.

Về diễn biến mới trên Biển Đông, theo GS. Carl Thayer và PGS. Batongbacal, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Nhưng để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác. Theo đó, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động trái với luật pháp quốc tế của Trung Quốc khi Bắc Kinh có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Trung Quốc muốn thị uy sức mạnh khi đánh chìm tàu cá Việt Nam?

Asia Times mới đây có bài phân tích của tác giả Richard Javad Heydarian (Giáo sư chính trị tại Đại học hàng đầu Philippines De La Salle - học giả nghiên cứu uy tín về Biển Đông) liên quan đến việc chính quyền Bắc Kinh tranh thủ chớp lấy cơ hội khi cả thế giới đang dồn sự chú ý đến coronavirus để “khẳng định chủ quyền lịch sử”, uy vũ sức mạnh và quyền bá chủ ở các vùng biển tranh chấp trên Biển Đông.

Khi các quốc gia Đông Nam Á đang vật lộn quay cuồng chống lại dịch bệnh Covid-19, đồng thời, nhóm tàu chiến và căn cứ quân sự của Hải quân Hoa Kỳ cũng đang ở trong thế yếu trước nguy cơ bùng phát và lây lan virus corona, đe dọa tính mạng nhiều người, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng của các bên thì Trung Quốc lại đang dùng mọi cách tận dụng cuộc khủng hoảng “dịch bệnh chết chóc” như thứ cơ hội chiến lược nhằm khẳng định quyền kiểm soát ở Biển Đông.

Với việc không một quân nhân nào của lực lượng Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) hay những đơn vị hữu quan khác được phát hiện nhiễm SARS-CoV-2, cường quốc châu Á này đang ngày càng “phô trương cơ bắp” thông qua loạt cuộc tập trận lớn của Quân đội, Hải quân, Không quân PLA nhằm củng cố quyền kiểm soát những thực thể tranh chấp trên Biển Đông. Theo Asia Times, mục đích mà Trung Quốc muốn hướng đến là rất đa dạng và khó lường, điển hình như gần đây nhất, Bắc Kinh muốn giám sát chiến lược Biển Đông và “đánh phủ đầu” yêu sách chủ quyền của các quốc gia Đông Nam Á nhỏ và yếu thế hơn.

Ngày 2 tháng 4, một tàu cá của ngư dân Quảng Ngãi, Việt Nam bị phía Trung Quốc đâm chìm ở Hoàng Sa. Tàu cá mang số hiệu QNg-90617 TS, công suất 420 CV do ngư dân Trần Hồng Thọ (sinh năm 1987 ở thôn Phú Quý, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn) làm chủ phương tiện đăng ký hành nghề lặn. Tàu cá này xuất bến tại Trạm kiểm soát Biên phòng Sa Kỳ vào ngày 20 tháng 3 để ra vùng biển quần đảo Hoàng Sa hành nghề, trên tàu có 8 lao động.

Theo ghi nhận, khi bị tông chìm, có 3 tàu cá gồm tàu cá mang số hiệu QNg-90045 TS do ngư dân Đặng Tằm làm chủ phương tiện, tàu cá QNg-90399 TS do ngư dân Đặng Dũng làm chủ phương tiện và tàu cá QNg-90929 TS do ngư dân Nguyễn Thành Linh làm chủ phương tiện chạy đến để cứu hộ nhưng khi đến nơi thì không thấy phương tiện và ngư dân đi trên tàu cá QNg-90617 TS mà thấy một tàu sắt màu trắng của nước ngoài (Trung Quốc) đang xuất hiện tại đây. Ba tàu cá tiếp tục tìm kiếm nhưng không phát hiện được tàu cá QNg-90617 TS cùng các ngư dân bị nạn, nên ngư dân Đặng Tằm đã gọi điện thông báo sự việc đến cơ quan chức năng.

Trước đó, tối ngày 2 tháng 4, ông Phùng Bá Vương, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Châu (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) cũng xác nhận địa phương đã nhận tin báo của anh Nguyễn Thành Linh (chủ tàu QNg 90929) báo về phía tàu Trung Quốc đã trao trả 8 ngư dân trên tàu của anh Trần Hồng Thọ.

“Sau khi tàu của anh Thọ bị tông chìm, ba tàu của ngư dân đến cứu thì tàu Trung Quốc xua đuổi. Đến 8 giờ, tàu Trung Quốc bắt giữ trái pháp luật hai trong ba tàu đến cứu về đảo Phú Lâm. Họ giữ tại đây đến 16 giờ 30 mới trao trả 8 lao động trên tàu của anh Thọ và để hai tàu này đi”, ngư dân Nguyễn Thành Linh cho biết.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh (Hua Chunying) cáo buộc tàu đánh cá Việt Nam xâm nhập vào vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc và khẳng định chính tàu cá của Việt Nam đột ngột chuyển hướng và đâm mạnh vào ram Tàu Hải cảnh của Trung Quốc.

Bà Hoa Xuân Oánh cũng khẳng định Bắc Kinh chỉ muốn chia sẻ thực tiễn và kinh nghiệm phòng chống dịch Covid-19 của Trung Quốc với các quốc gia khác, và sẽ không biến dịch bệnh thành bất kỳ loại vũ khí hoặc công cụ địa chính trị nào.

“Chính tàu cá Việt Nam đâm vào Tàu Hải cảnh của chúng tôi và bị chìm - tất cả 8 thủy thủ đoàn đã được giải cứu”, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc Trương Quân (Zhang Jun) bình luận về vụ việc này.

“Chúng tôi đã kêu gọi Việt Nam thực hiện nghiêm túc những biện pháp để tránh các sự cố tương tự xảy ra trong bối cảnh hoạt động đánh bắt cá bất hợp pháp ngày càng gia tăng thường xuyên ở vùng biển Hoàng Sa”, ông Trương Quân nói.

Học giả Philippines: Trung Quốc lợi dụng khủng hoảng coronavirus để dễ chiếm Biển Đông

Bình luận trên Asia Times, nhà nghiên cứu Biển Đông Richard Javad Heydarian cho biết, đại dịch coronavirus bắt nguồn từ Trung Quốc đang khiến nền kinh tế Philippines đối mặt với hàng loạt nguy cơ, thách thức, sự đình trệ và xu hướng suy thoái, cùng với những ảnh hưởng nghiêm trọng lên tình hình kinh doanh, sản xuất, đời sống xã hội nước này, càng làm tăng thêm sự tức giận và bất bình giữa những người dân Philippines cũng như giới quan chức. Tất cả đều cảm thấy Bắc Kinh đang thúc đẩy cuộc khủng hoảng để giành lấy quyền bá chủ trên các vùng biển và thực thể mà Manila tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông.

“Có những lo ngại đồng thời rằng bệnh dịch coronavirus có thể làm suy yếu khả năng chiến đấu của Lực lượng Vũ trang Philippines (AFP) để bảo vệ đất nước chống lại các cuộc nổi dậy và các nhóm khủng bố ở các vùng cực nam và ngoại vi, cũng như bên ngoài Trung Quốc , phía nam Biển Hoa Đông và khu vực Tây Thái Bình Dương”, học giả Philippines bình luận.

“Trong khi Philippines đang vật lộn với tình hình Covid-19 diễn biến leo thang, Trung Quốc đồng thời đẩy mạnh quá trình quân sự hóa Đá Vành Khăn”, Asia Times cho biết.

Chưa hết, Trung Quốc cũng đang tăng cường sự hiện diện của mình xung quanh bãi cạn Scarborough, nằm cách các căn cứ quân sự Subic và Clark chiến lược của Philippines hơn 100 hải lý.

Mỹ, Philippines lên tiếng ủng hộ Việt Nam ở Biển Đông

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, khẳng định rằng tàu Hải cảnh Trung Quốc đã có hành vi vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và đe dọa tính mạng cũng như làm tổn hại tài sản và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam.

“Hành động trên của tàu công vụ Trung Quốc đã xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, gây thiệt hại về tài sản, đe doạ an toàn tính mạng và lợi ích hợp pháp của ngư dân Việt Nam, đi ngược lại nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc đối xử nhân đạo với ngư dân và Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, trái với tinh thần Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình và không có lợi cho quan hệ hai nước cũng như việc duy trì hoà bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ.

Ngày 03/04/2020, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giao thiệp với đại diện Đại sứ quán Trung Quốc và trao công hàm phản đối, yêu cầu phía Trung Quốc điều tra làm rõ, xử lý nghiêm đối với nhân viên công vụ và tàu Hải cảnh Trung Quốc nêu trên, không để tái diễn những hành động tương tự, đồng thời bồi thường thoả đáng các thiệt hại cho ngư dân Việt Nam.

Vụ việc đánh dấu lần thứ hai trong 12 tháng qua, lực lượng Hải giám, dân quân biển của Trung Quốc đã khiêu khích, đánh chìm tàu cá của những “đối thủ” quốc gia Đông Nam Á khác.

“Kinh nghiệm tương tự của chúng tôi đã cho thấy niềm tin vào tình bạn đã bị mất như thế nào qua vụ việc như vậy, và niềm tin đã được tạo ra nhiều thế nào bởi hành động nhân văn của Việt Nam trực tiếp cứu mạng sống của ngư dân Philippines của chúng tôi", tuyên bố của Bộ Ngoại giao Philippines nêu rõ.

Trong tuyên bố phát ngày 8/4, Bộ Ngoại giao Philippines nhấn mạnh rằng các ngư dân nước này cũng từng là nạn nhân của Trung Quốc và sẽ mãi ghi nhớ hành động nhân đạo của Việt Nam khi cứu vớt các ngư dân Philippines.

“Chúng tôi đã không ngừng và sẽ không ngừng cảm ơn Việt Nam về hành động đó. Và với suy nghĩ trên, chúng tôi đưa ra tuyên bố này để thể hiện tình đoàn kết”, Manila khẳng định.

Bộ Ngoại giao Philippines đồng thời cũng nhấn mạnh rằng các sự cố như vừa xảy ra với tàu cá Việt Nam khiến quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc bị xói mòn trong bối cảnh hai bên đang đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC).

Cũng trong một động thái ủng hộ Việt Nam và chỉ trích “thói bắt nạt” của Bắc Kinh, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ngày 9/4 ra tuyên bố lên án hành động của Trung Quốc trong vụ đâm chìm tàu cá Việt Nam tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ở Biển Đông.

Theo đó, Bộ Quốc phòng Mỹ bày tỏ quan ngại sâu sắc trước thông tin về việc tàu cảnh sát biển Trung Quốc va chạm và đâm chìm một tàu cá của Việt Nam tại khu vực gần đảo Phú Lâm, Hoàng Sa.

“Hành vi của Trung Quốc trái ngược với tầm nhìn của Mỹ về một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở, trong đó tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều được bảo đảm chủ quyền, không bị ép buộc và có quyền phát triển kinh tế phù hợp với các quy tắc và chuẩn mực quốc tế. Mỹ sẽ tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực nhằm đảm bảo tự do hàng hải và cơ hội kinh tế trong toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”, Lầu Năm Góc tuyên bố.

Đồng thời, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng nhấn mạnh đại dịch Covid-19 cho thấy rõ hơn tầm quan trọng của trật tự quốc tế dựa trên luật pháp, vì điều đó tạo điều kiện cùng giải quyết mối đe dọa chung theo cách minh bạch, tập trung và hiệu quả.

Lầu Năm Góc cũng kêu gọi tất cả các bên kiềm chế những hành động gây mất ổn định khu vực, có thể làm chệch hướng nỗ lực toàn cầu tập trung đối phó với đại dịch, hoặc gây ra nguy cơ không cần thiết dẫn đến tổn thất về người và tài sản.

Việt Nam Philippines lẫn Malaysia sẽ cùng chống Trung Quốc ở Biển Đông?

Mặc dù vẫn còn đó những quan điểm khác biệt trong vấn đề Biển Đông, cả Việt Nam, Philippines lẫn Malaysia đều gắn kết nhau một cách tự nhiên trên góc độ đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế.

Sau sự kiện Trung Quốc sử dụng tuyên bố chủ quyền phi pháp ở Biển Đông để phản bác công hàm của hai nước Philippines và Malaysia, ngày 30/3, phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã gửi công hàm bác bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp của Bắc Kinh.

“Luật lệ dựa trên luật pháp sẽ có lợi cho Việt Nam, Philippines và Malaysia hơn nhiều so với luật rừng, nơi kẻ mạnh săn đuổi và chiến thắng kẻ yếu”, đó là ý kiến khẳng đinh của PGS Jay Batongbacal - giám đốc Viện các vấn đề hàng hải và luật biển (Đại học Philippines) bình luận với Tuổi Trẻ cho hay.

Dù được ký ngày 30 tháng 3, đến ngày 7 tháng 4 thông tin về công hàm của Việt Nam mới được phổ biến. Đây cũng là quãng thời gian Bộ Ngoại giao Philippines ra tuyên bố bày tỏ quan ngại sâu sắc tới vụ việc tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi (Việt Nam) ở vùng nước gần Hoàng Sa ngày 2 tháng 4.

Theo GS Carl Thayer, lý do mà nội dung đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) rất khó được thông qua cũng là vì bản thân Bộ Quy tắc này không định nghĩa được khu vực hàng hải ở Biển Đông mà nó sẽ áp đặt tính ràng buộc, bởi ngay cả trong nội bộ ASEAN cũng chưa nhất trí về hiện trạng khu vực này.

Dẫn chứng về vấn đề này, GS Thayer cũng nhấn mạnh, trong công hàm ngày 12/12/2019, Malaysia liên tục khẳng định đó chỉ là bản đệ trình một phần, và nó "không ảnh hưởng tới việc phân định thềm lục địa" và "không ảnh hưởng tới lập trường của các nước liên quan tới tranh chấp lãnh thổ hoặc lãnh hải".

“Điều đó để ngỏ khả năng Malaysia, Philippines và Việt Nam có thể phân định khu vực chồng lấn để giải quyết tranh chấp. Philippines và Việt Nam hiện đang "cùng tông" đối với chuyện tuân thủ phán quyết của Tòa trọng tài (The Hague, Hà Lan) trong việc bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Một lập trường nhất trí của ba nước sẽ có ích cho việc cô lập Trung Quốc về chính trị nhưng không làm thay đổi hiện trạng trên thực địa”, GS Thayer nhận định.

Cũng đồng ý với quan điểm này, PGS Jay Batongbacal của Philippines cũng khẳng định, không phải Việt Nam, Philippines và Malaysia đang "đoàn kết" chống lại Trung Quốc nếu hiểu theo lẽ thông thường.

“Rõ ràng mỗi nước vẫn hành động độc lập với nhau và không nhất thiết nhất trí với từng chi tiết khi đưa ra một lập trường đơn nhất khi đối mặt với Trung Quốc”, - ông Batongbacal nhận định.

PGS Batongbacal không cho rằng động thái của các nước trong thời gian vừa qua là “đoàn kết” theo nghĩa ba nước này đã “nhất trí một cách có ý thức” để cất lên tiếng nói duy nhất, hoặc đưa ra một lập trường chung nhất trong các tranh chấp.

“Tôi nghĩ chúng ta chưa đến thời điểm cố ý và chủ động phối hợp cho các quyết định, chính sách và hành động về vấn đề này. Nhưng tôi cho rằng cái chúng ta đang chứng kiến là một sự nhất quán tự nhiên, hợp lôgic trong lập trường của mỗi bên, vốn dĩ đang là kỳ vọng vì tất cả đều cam kết với quy định pháp luật và đang đặt trọng tâm sâu sắc vào luật pháp quốc tế”, - PGS Batongbacal đưa ra quan điểm.

Theo ông Batongbacal, vì Việt Nam, Philippines hay Malaysia đều là các nước nhỏ, đang phát triển với sức mạnh quân sự và chính trị còn hạn chế hơn các nước lớn nên việc chú trọng luật quốc tế là tinh thần phù hợp. Việc tuân thủ luật pháp, bảo vệ và lên tiếng theo lẽ phải là điều kiện và nhu cầu hiển nhiên để đảm bảo lợi ích quốc gia.

“Đối với các nước này, tuân thủ luật pháp quốc tế đã được đồng thuận và áp dụng lên tất cả mọi người là yêu cầu cần thiết để họ đảm bảo sự độc lập và chủ quyền”, PGS Batongbacal nhấn mạnh.

Việt Nam không để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông: Cần cơ sở pháp lý

Liên quan đến công hàm mới nhất gửi Liên Hiệp Quốc, tại họp báo chiều ngày 9 tháng 4, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng cho biết việc lưu hành công hàm tại Liên Hiệp Quốc là điều bình thường, thể hiện lại lập trường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Việt Nam.

“Lập trường nhất quán của Việt Nam đã được thể hiện đầy đủ tại công hàm này”, bà Hằng nói.

Đồng thời đại diện Bộ Ngoại giao khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam là “giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, như đã được thể hiện trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982”, phát ngôn viên Lê Thị Thu Hằng tuyên bố.

Nhiều học giả quốc tế cũng nhận xét, công hàm ngày 30.3 của Việt Nam là động thái đúng đắn, phù hợp và cần thiết trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong vấn đề biển đảo.

GS Thayer nhấn mạnh, Việt Nam phải tiếp tục phản đối bất kỳ hành động nào của Bắc Kinh khi nước này có những hành vi xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Theo chuyên gia này, việc cung cấp “một dấu vết pháp lý trên giấy” là rất cần thiết để chứng minh tính nhất quán của Việt Nam trong lập trường về Biển Đông, đặc biệt là trong một thời gian dài.

Cả hai GS Thayer lẫn PGS Batongbacal đều cho rằng, với những động thái trong thời gian qua, Việt Nam đang đi đúng hướng và thậm chí có thể thắng nếu gửi đơn kiện Trung Quốc. Mặc dù vậy, để chắc chắn thành công, Việt Nam cần có một chiến lược sâu rộng, kết hợp với sự ủng hộ từ các nhân tố khác.

PGS Batongbacal nhận định, những vi phạm mới nhất của Trung Quốc như vụ đưa giàn khoan vào khu vực tranh chấp hàng hải, triển khai nghiên cứu khoa học trên biển ở vùng đặc quyền kinh tế của nước khác và mới đây nhất là đâm chìm tàu cá Việt Nam, tất cả đều có thể là cơ sở cho những đơn kiện trong tương lai.

Tuy vậy, cũng cần nói thêm rằng đơn kiện chỉ là một công cụ pháp lý. Biện pháp này phải được cân nhắc hết sức cẩn thận và phối hợp với những hành động ngoại giao và chính trị. Tất cả phải được tiến hành đồng thời và độc lập trong giai đoạn xét xử vụ kiện. Bên thưa kiện phải xem nó là một phần trong khuôn khổ một chiến lược rộng lớn hơn.

“Vì thế, bất kỳ động thái hay diễn biến nào trong vụ kiện cũng phải được phối hợp với chính sách đối ngoại của Việt Nam cũng như chính sách ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc và các khía cạnh khác trong mối quan hệ song phương này", - PGS Batongbacal kết luận

Theo Sputnik News

Đăng nhận xét

0 Nhận xét